Lịch sử của cà phê, đặc biệt là ở giai đoạn đầu, đã tiến triển cùng cái tên Typica. Đối với nhiều người yêu cà phê, Cà phê Typica là tiêu chuẩn cho mọi thang đo chất lượng đối với cà phê. Trong hai thế kỷ qua, người ta đã tranh luận về các loại cà phê là tốt hay xấu dựa trên hương vị Typica. Tuy nhiên, ngành cà phê đang dần đã thoái vị Typica ở vị trí “bà hoàng” như nó từng nắm giữ, vì dù với năng suất cao, song khả năng chống chịu sâu bệnh rất kém khiến cho nó không còn được ưa chuộng trong trong canh tác
- Nếu bạn đang thắc mắc về cái tên Typica, và mối liên hệ của nó với Bourbon hay Arabica. Bạn có thể tham khảo Các nhóm di truyền của giống Arabica.
Tổng quan về cà phê Typica
Do đặc tính duy truyền, Arabica Typica chứa một lượng lớn axit malic – cho vị chua giống như trong một quả táo. Thuộc tính chất lượng cao này cộng với hương vị ngọt ngào (sweetness) cho tổng thể hương vị cân bằng được đánh giá rất cao. So với cây Bourbon, cây Typica có hạt dài hơn và sản lượng cà phê ít hơn khoảng 20 – 30%. Chúng cũng có thể trở thành con mồi của tất cả các loài sâu bệnh hại cà phê, như bệnh gỉ sắt (coffee leaf rust) hay bệnh bery,.. Tóm lại, các cây cà phê thuộc giống Typica có khả năng cho hạt cà phê chất lượng cốc cao, nhưng hiệu quả kinh tế tương đối thấp. Nhiều giống con đã được lại tạo ra với hy vọng khắc phục những vấn đề này.
Theo WCR giống Arabica Typica thường được biết đến như một nhóm (The Typica group) với nhiều giống con, các giống hậu duệ này được canh tác rải rác trên khắp thế giới và mang các tên gọi khác nhau như Criollo (Creole), Indio (tại Ấn Độ) hoặc Arábigo (Arabica) hay Blue Mountain (tại Jamaica) và Sumatra (tại Indonesia).
Lược sử canh tác cà phê ArbicaTypica
Như đã nói, Typica, cùng với cà phê Bourbon, là một trong hai loại cà phê C. Arabica quan trọng nhất về mặt di truyền trên thế giới. Các ghi chép lịch sử chỉ ra rằng hạt cà phê Typica đã được lấy từ các khu rừng cà phê ở Tây Nam Ethiopia và mang đến Yemen từ thế kỷ 16, những hạt giống Typica đầu tiên ra khỏi Yemen được gửi đến Baba Budan, thuộc Ấn Độ. Những hạt giống này đã tạo ra các đồn điền cà phê ở vùng Mysore được gọi là Malabar tại thời điểm đó.
- Xem thêm hành trình chinh phục thế giới của cây cà phê để biết rõ hơn
Sau đó một thời gian, vào năm 1696 (đến 1699) từ bờ biển Malabar của Ấn Độ cây cà phê Typica đã được người Hà Lan mang đến Batavia, ngày nay gọi là Jakarta, thủ đô của Indonesia. Tuy nhiên cần nói thêm rằng, trước đó Người Hà Lan đã cố gắng trồng các hạt giống Typica từ Yemen trực tiếp đến Batavia vào năm 1690, tuy nhiên, hầu hết chúng đã chết do động đất.
Nhưng cuộc hành trình của Typica vẫn chưa dừng lại ở đó, từ nhóm cà phê Typica trên đảo Java – Indonesia, một cây cà phê duy nhất được mang đến Amsterdam vào năm 1706 (trong vườn thực vật Amsterdam) đặt nền mống cho nguồn giống mà sau này đã xâm chiếm châu Mỹ trong thế kỷ 18. Đó là vào năm 1714, sau khi hiệp ước hòa bình Utrecht giữa Hà Lan và Pháp được ký kết, thị trưởng Amsterdam đã tặng một cây cà phê Typica cho vua Louis IV của Pháp, nó được trồng trong nhà kính của Jardin des Plantes.
Sự có mặt của Typica tại Trung & Nam Mỹ
Như vậy, cả Pháp và Hà Lan đều có trong tay hạt giống Typica, cái hay tiếp theo là trong thế kỷ 17, cả hai đế quốc này đang chia nhau một vùng thuộc địa ở Nam Mỹ, vùng đất Guianas, một bên do Hà Lan kiểm soát (nay là Suriname) phí còn lại thì trong tay người Pháp. Và như thế, vào năm 1719, cà phê Typica đã lan từ Guiana-Hà Lan đến Guiana-Pháp rồi có mặt tại đến Brazil năm 1727. Đồng thời thông qua con đường thứ hai từ Paris đến đảo Martinique, bởi thuyền trưởng Gabriel de Clieu (xem thêm Lịch sử cà phê thế kỷ 17-18 để rõ hơn ).
Từ Brazil, Typica tiếp tục được chuyển đến Peru và Paraguay. Vào cuối thế kỷ 18, việc trồng trọt cà phê Typica lan rộng đến vùng Caribbean (Cuba, Puerto Rico, Santo Domingo), Mexico và Colombia, và từ đó phổ biến đến Trung Mỹ (nó được trồng ở El Salvador sớm nhất vào năm 1740). Cho đến những năm 1940, đa số các đồn điền cà phê ở Trung Mỹ được trồng giống Typica. Vì giống typica có năng suất thấp và rất nhạy cảm với các bệnh cà phê (như bệnh gỉ sắt, Berry và cả các bệnh tuyến trùng) nên nó đã dần dần được thay thế ở nhiều nước Châu Mỹ, nhưng vẫn được trồng rộng rãi ở Peru, Cộng hòa Dominican, Cộng hòa Ecuador, và Jamaica.
Các giống cà phê Typica phổ biến
Ngày nay, sản xuất cà phê ở Mỹ Latinh vẫn còn dựa vào một mức độ lớn trên các giống cây phát triển từ typica và các giống Bourbon. Trong đó Brazil, chiếm 40% sản lượng thế giới có đến 97,55% giống cà phê bắt nguồn từ Typica và Bourbon. Tuy nhiên có một nghịch lý điển hình của tổ hợp giống Typica đó là, hầu hết các cây cà phê bản địa có nguồn gốc Typica như Blue Mountain, Kona, Java và Sumatra … đều bị nhầm lẫn là những giống loài riêng, trên thực tế tất cả đều có nguồn gốc duy truyền của Typica, nhưng danh tiếng về hương vị của chúng đã lấn át đi nguồn gốc.
Giống Kent từ Ấn Độ
Đây là cây cà phê đầu tiên được trồng để chống bệnh gỉ sắt (mặc dù hiện tại nó dễ bị tấn công bởi các chủng mới của bệnh). Hầu hết mọi người tin rằng giống này có nguồn gốc từ các cây Typica được trồng ở miền Đông Ấn Độ, song, trên thực tế nó đã được trồng trên khắp đất nước. Ngoài ra còn có một phiên bản của Kent có tên K7 rất phổ biến ở Kenya.
Cây cà phê Kona (Hawai)
Cà phê Kona là một trong những loại cà phê đắt tiền và được đánh giá cao nhất trên thế giới. Nó không phải là một giống cà phê cá biệt, mặc dù người trồng cà phê ở Hawai gọi nó là “Kona Typica” (vì hương vị khác biệt chứ không phải là từ đặc điểm di truyền). Điều này có thể do Kona được canh tác dựa trên các điều kiện và phương pháp trồng trọt độc đáo (và được quy định cao) của vùng Kona ở Hawai. Nông dân canh tác Kona tại đây, là một trong những người đầu tiên coi việc trồng cà phê như một nghề thủ công và vào thời điểm mà rất ít người làm như vậy.
Với danh tiếng chất lượng làm lu mờ cả nguồn gốc Typica, cà phê Kona đã trở nên khá khan hiếm, và vì lý do này có rất nhiều “Kona Coffee” có ít hơn 10% hạt Kona trên thị trường – Craft Coffee
Giống Blue Moutain (Jamaica)
Giống như Kona, đây là một “thương hiệu” khác của Typica, lần này là từ vùng núi Blue Mountains của Jamaica. Ủy ban Công nghiệp Cà phê Jamaica đã giám sát sự tăng trưởng và chế biến cà phê này, và tất cả cà phê được bán dưới tên “Blue Mountain” đã được hội đồng chứng nhận. Giống như Kona, thương hiệu Blue Mountain cũng đăt đỏ và “dìm” mất nguồn gốc Typica của nó.
Giống Maragogype (Brazil)
Maragogype hay Maragogipe, phát âm là [mara-go-heap-ay], giống này là một đột biến tự nhiên của Typica được phát hiện ở Brazil vào khoảng năm 1870. Nhược điểm chính là nó có năng suất tương đối thấp, còn lại mọi thứ trên cây Maragogype đều rất lớn: kích thước chung, lá, quả & hạt. Vì kích thước tương đối lớn của những hạt cà phê này, nên nó cần thêm một chút kỹ năng trong quá trình rang để có khai thác được tiềm năng hương vị. Tuy nhiên, Maragogype không được trồng phổ biến (do năng suất thấp), nhưng vì tính hiếm có và chất lượng tương đối của nó đã thu hút không ít người quan tâm.
Nguồn tham khảo”
- worldcoffeeresearch.org/ – The Catalog Coffee Varieties
- espressocoffeeguide.com/ – History of the Coffee Bean