“Giống có năng suất cao, dạng lùn/nhỏ gọn, kháng bệnh gỉ sắt lá cà phê và bệnh quả cà phê. Thường được tìm thấy ở Malawi, Zambia và Zimbabwe.”
Catimor là kết quả lai chéo giữa giống Timor Hybrid và giống Caturra. Ở Trung Mỹ, Catimor còn được biết đến với tên T8667, với khả năng chống bệnh gỉ sắt (Coffee Leaf Rust) mạnh mẽ.
Điều quan trọng cần lưu ý là, trái với nhiều quan niệm phổ biến, “Catimor” không phải là một giống riêng biệt. Thay vào đó, đây là một nhóm gồm nhiều giống khác nhau có nguồn gốc tương tự như: Anacafe 14, Catisic, Costa Rica 95, Fronton, T5175, T8667,..
Các nhóm giống như Catimor và Sarchimor được hiểu là những giống Arabica không “thuần chủng” vì sở hữu một số đặc điểm di truyền từ một loài khác – chủ yếu là C. canephora (Robusta). Nguyên văn của thuật ngữ này là Introgressed – tức Lai cận giới hay còn được gọi là lai cận tính).
Tương tự người anh em – giống Sarchimo (điển hình với cây cà phê T5296) có cùng giống cha là Timor Hybrid gắn liền với những ngày đầu của Liên minh Cà phê khu vực Trung Mỹ (PROMECAFE) – được thành lập năm 1978 với sự tài trợ của Văn phòng khu vực Trung Mỹ của USAID (ROCAP) và Viện nông học Campinas (IAC) ở Brazil để đối phó với mối đe dọa đặt ra bởi sự xuất hiện gần đây của bệnh gỉ sắt lá cà phê trong khu vực.
Lịch sử chi tiết của nhóm giống Catimor
Từ những năm 1958 – 1959, Viện nghiên cứu cà phê của Bồ Đào Nha (Centro Agronómico Tropical de Investigación y Enseñanza) viết tắt là CIFC, nổi tiếng với nghiên cứu về bệnh gỉ sắt trên lá cà phê, đã nhận được rất nhiều hạt giống Timor Hybrid từ đảo Đông Timor (Timor Hybrid là cây lai tự nhiên giữa C. Arabica và C. Robusta, xuất hiện tự nhiên trên đảo Timor vào những năm 1920). Đặc tính di truyền từ Robusta đã cho Timor kháng bệnh gỉ sắt rất tốt.
Từ hai lô hạt giống mà CIFC nhận được, các nhà lai tạo ở Bồ Đào Nha bắt đầu làm việc để tạo ra các giống cà phê mới có khả năng kháng bệnh, đồng thời có tầm vóc nhỏ gọn để nâng cao năng suất trên cùng một diên tích canh tác. Một trong những cây Timor Hybrid trên, được gọi là HDT CIFC 832/2, được lai với giống Caturra nhỏ gọn để tạo ra các dòng lai khác nhau:
- Caturra đỏ CIFC 19/1 x HDT CIFC 832/1 = HW26
- Caturra đỏ CIFC 19/1 x HDT CIFC 832/2 = H46
Sau một số thử nghiệm ban đầu tại IAC – Brazil, các giống lai được gọi là “Cat Catoror”. Những cây lai đời đầu này đã ra đời ngay trong thời kỳ xuất hiện bệnh gỉ sắt ở châu Mỹ. Vì vậy, không lâu sau đó các giống Catimor đã trải qua chọn lọc trên nhiều nơi ở nhiều nơi ở Mỹ Latin và phân tán ra toàn thế giới. Tại Malawi, Đơn vị Nghiên cứu cây cà phê tại đây đã sử dụng năm giống con của Catimor. Tại Papua New Guinea, sáu dòng Catimor đã được chọn lọc và đưa vào canh tác.
Một số giống arabica thuộc nhóm Catimor
Ngày nay, các giống cà phê T5175, T8667, và nhiều giống khác có mối quan hệ mật thiết và phần lớn đều thuộc nhóm “Catimor”, một nhóm các giống cà phê được tạo ra từ việc lai giữa Timor Hybrid và Caturra. Dưới đây là một sự hệ thống mối quan hệ của các giống cà phê này:
T5175: Là một giống cà phê lai giữa Timor Hybrid (832/1) và Caturra. Giống này không đồng nhất và có sự phân ly trong các thế hệ tiếp theo. T5175 được sử dụng trong các chương trình chọn giống ở Costa Rica, và sau đó dẫn đến sự phát triển của các giống như IHCAFE 90 và Lempira ở Honduras.
T8667: Là một giống cà phê quan trọng khác trong nhóm Catimor, lai giữa Timor Hybrid 832/1 và Caturra. T8667 là giống chống bệnh gỉ sắt và thích hợp với các vùng có khí hậu ấm và đất có tính axit. Giống này là nền tảng để tạo ra các giống như Costa Rica 95, Lempira, và Catisic.
Anacafe 14
Anacafe 14 có năng suất rất cao, khả năng kháng gỉ sắt tốt và chất lượng ổn định khi trồng ở độ cao trên 1300 mét. Tuy nhiên, giống này không đồng nhất – nghĩa là trong quá trình trồng trọt, các cây cà phê của giống này không hoàn toàn giống nhau về đặc điểm. Điều này có thể xuất hiện trong các yếu tố như kích thước cây, năng suất, chất lượng hạt, hoặc khả năng chống chịu bệnh.
Anacafe 14 được cho là xuất phát từ một sự lai tự nhiên giữa giống Catimor (Timor Hybrid 832/1 x Caturra ) và Pacamara vào khoảng năm 1980, tại Chiquimula, Guatemala. Giống này được phát hiện bởi nông dân Francisco Manchamé. Sau nhiều chu kỳ chọn lọc hàng loạt (dựa trên hiệu suất vượt trội của các cây riêng lẻ) và quá trình chọn lọc phả hệ được thực hiện bởi Hiệp hội Cà phê Quốc gia Guatemala (ANACAFÉ), giống này đã được ra mắt thương mại vào năm 2014.
Cat129
Cat129 (hay Nyika tại Malawi) là một giống cà phê năng suất cao, dạng lùn và kháng bệnh gỉ sắt lá cùng bệnh nấm quả cà phê (CBD). Giống này được tìm thấy phổ biến tại Malawi, Zambia và Zimbabwe.
Cat129, hay còn được gọi là Nyika tại Malawi, là một giống cà phê năng suất cao, dạng lùn và kháng tốt cả bệnh gỉ sắt lá lẫn bệnh nấm quả cà phê (CBD). Đây là giống chọn lọc từ dòng Catimor (Caturra x Timor Hybrid 1343) tại Colombia, được đưa vào châu Phi qua Kenya từ những năm 1970, nơi nó đóng vai trò làm giống mẹ trong một số dòng lai Ruiru 11. Đến những năm 1990, Cat129 được giới thiệu tại Malawi thông qua một chương trình tái canh cà phê do Liên minh Châu Âu tài trợ, nhằm thay thế các giống cà phê già cỗi như Agaro và Geisha bằng các giống Catimor năng suất cao, đồng thời kiểm soát bệnh hại mà không cần sử dụng nhiều thuốc diệt nấm.
Catisic
Catisic là giống lai giữa Timor Hybrid 832/1 và Caturra, được chọn lọc phả hệ (chọn lọc các cây cá thể qua nhiều thế hệ kế tiếp) bởi PROMECAFE và Viện Nghiên cứu Cà phê El Salvador (ISIC). Giống này có nhiều điểm tương đồng với Costa Rica 95, một giống khác thuộc nhóm Catimor.
Costa Rica 95
Costa Rica 95 là giống cà phê có năng suất cao, thích nghi tốt với các vùng khí hậu ấm và đất có tính axit, đặc biệt là những nơi giàu nhôm. Tuy nhiên, các đánh giá khoa học gần đây tại Costa Rica đã xác nhận giống này nhạy cảm với bệnh gỉ sắt lá cà phê và có thể cũng nhạy cảm ở các khu vực khác tại Trung Mỹ. Ngoài ra, Costa Rica 95 cũng rất dễ mắc bệnh Ojo de Gallo.
Costa Rica 95 là kết quả của phép lai giữa Timor Hybrid 832/1 và Caturra, được chọn lọc phả hệ (lựa chọn các cây cá thể qua nhiều thế hệ kế tiếp) bởi Viện Cà phê Costa Rica (ICAFE).
Fronton
Fronton là giống cà phê có năng suất cao, cho thu hoạch sớm và kháng bệnh gỉ sắt lá cà phê. Tuy nhiên, giống này không đồng nhất, có hiện tượng phân ly (khác biệt giữa các cây cà phê trong cùng một giống, gây ra sự đa dạng trong các đặc điểm di truyền hoặc tính trạng trong vườn cà phê) và dễ bị tổn thương bởi sâu đục lá cà phê. Fronton thích nghi tốt với các vùng có độ cao thấp đến trung bình, chủ yếu được trồng ở Puerto Rico.
Giống này là kết quả của sự lai tạo giữa Timor Hybrid và Caturra, được giới thiệu vào Puerto Rico từ Viện Nông học Campinas (IAC) tại Brazil. Quá trình chọn lọc được thực hiện bởi Trạm Nghiên cứu Nông nghiệp tại Adjuntas, Puerto Rico.
IHCAFE 90
IHCAFE 90 là một giống cà phê có năng suất cao, thích hợp với vùng đất thấp và yêu cầu phân bón cao. Gần đây, thông qua các nghiên cứu khoa học, giống này đã được xác nhận là dễ bị nhiễm bệnh rỉ sắt cà phê ở Honduras và có thể cũng dễ bị ảnh hưởng ở các khu vực khác của Trung Mỹ. Giống này cũng rất dễ mắc bệnh Ojo de Gallo. IHCAFE 90 là một giống lai giữa Timor Hybrid 832/1 và Caturra, được chọn lọc qua phương pháp chọn giống dòng (pedigree selection) bởi Instituto Hondureño del Café (IHCAFE). Giống này rất giống với T5175.
Lempira
Lempira là một giống cà phê có năng suất cao, thích hợp với các vùng có khí hậu ấm áp và đất có tính axit. Mới đây, qua đánh giá khoa học, Lempira đã được xác nhận là dễ bị bệnh rỉ sắt cà phê ở Honduras và có thể cũng dễ bị bệnh này ở các khu vực khác của Trung Mỹ. Ngoài ra, giống này cũng dễ bị bệnh Ojo de Gallo. Lempira thích hợp với đất có tính axit và giàu nhôm, cũng như những vùng có nhiệt độ ấm áp.
Giống này là sự lai tạo giữa Timor Hybrid 832/1 và Caturra, và quá trình lựa chọn cây giống (chọn lựa các cây ưu tú qua các thế hệ) được thực hiện bởi PROMECAFE và Instituto Hondureño del Café (IHCAFE). Lempira có đặc điểm rất giống với Costa Rica 95.
Oro Azteca
Oro Azteca là một giống cà phê có năng suất cao, thích hợp với các vùng có khí hậu ấm áp và đất có tính axit. Giống này dễ bị bệnh Ojo de Gallo và được khuyến nghị trồng trên đất có tính axit, giàu nhôm và ở những vùng ấm nhất. Oro Azteca là kết quả của sự lai tạo giữa Timor Hybrid 832/1 và Caturra, và quá trình chọn lựa cây giống (chọn lựa cây ưu tú qua các thế hệ) được thực hiện bởi INIFAP (Mexico).
Nguồn tham khảo:
- https://varieties.worldcoffeeresearch.org/