Năm 1999, một lượng lớn cà phê đã bất ngờ đã tràn ngập thị trường toàn cầu, mặc dù các nhà đầu cơ dự đoán năng suất thấp hơn một chút, nhưng Việt Nam đã sản xuất một vụ mùa bội thu Robusta và vụ thu hoạch của Brazil được gia tăng đáng kể bởi các đồn điền mới gây dựng lại sau một đợt sương giá tàn khốc từ giữa những năm 1990. Trên khắp thế giới, giá cà phê trượt dốc trầm trọng trước khi sụp đổ tận đáy thị trường.
Khi giá cả giảm dưới giá thành sản xuất, ở nhiều vùng trồng cà phê nhiều người phải từ bỏ đồn điền của họ, các gia đình phụ thuộc vào cà phê phải tìm kiếm sinh kế khác, họ di cư đến các khu vực đô thị để tìm kiếm việc làm. Sự phụ thuộc của một quốc gia vào cà phê càng lớn, tác động của cuộc khủng hoảng cà phê càng lớn hơn – Coffee Culture
Cuộc khủng hoảng cà phê 1999 – 2003 chỉ là vụ mới nhất trong một loạt các biến động có tính chu kỳ gắn liền với sản xuất cà phê và thị trường thương mại trong 250 năm qua. Tại sao giá cà phê biến động như vậy? Biến động giá đã ảnh hưởng đến lịch sử và cuộc sống của người sản xuất cà phê như thế nào? Các nhà kinh tế thường tranh luận về cách tiếp cận nào có thể giúp nhà sản xuất tồn tại trước biến động thị trường và thường đồng ý rằng tương lai của cà phê phụ thuộc vào việc giảm sản lượng cà phê chất lượng thấp trên toàn cầu; Tuy nhiên trên thực tế, khuyến nghị này rất khó trở thành hiện thực.
Chu kỳ thị trường của cà phê
Sự biến động theo chu kỳ của thị trường cà phê có thể được bắt nguồn từ một trong hai đặc điểm chính của sản xuất cà phê. Đầu tiên, nguồn cung cà phê có thể thay đổi đáng kể theo thời gian do các sự kiện không lường trước (thiên tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh). Thứ hai, sự chậm trễ vài năm giữa thời điểm trồng và vụ thu hoạch đầu tiên gây khó khăn cho việc cung ứng nhu cầu. Sự kết hợp của hai yếu tố này dẫn đến một mô típ quen thuộc: Nguồn cung khi vượt quá nhu cầu sẽ khiến khiến giá giảm mạnh. Khi giá giảm, các nhà sản xuất thường cắt giảm sản xuất, dẫn đến nguồn cung thấp hơn. Khi nguồn cung giảm, giá tăng và các nhà sản xuất lại trồng thêm cà phê, điều này cuối cùng làm tăng nguồn cung toàn cầu trên mức có thể bán và chu kỳ lặp lại.
Tại nhiều thời điểm quan trọng trong lịch sử, giá cà phê và nguồn cung đã phải chịu ảnh hưởng đáng kể do điều kiện thời tiết, dịch bệnh và sự bất ổn xã hội. Vào những thời điểm khác, giá giảm và sự bất bình đẳng xã hội của sản xuất cà phê dẫn đến những cuộc nổi loạn và bi kịch. Trong 500 năm qua, sự biến động trong nguồn cung cũng liên quan đến trạng thái không cân xứng của một vài quốc gia sản xuất chính thức bắt đầu với Yemen, sau đó là Java, trước khi đến Santo Domingo (Haiti) và hiện tại là Brazil. Khi vụ thu hoạch của các đối trọng này thất bại, giá cả thị trường toàn cầu đã tăng lên; Ngược lại, khi các nhà dẫn đầu này được mùa, giá thị trường toàn cầu đã giảm.

Cơ chế đầu cơ thị trường và sự can thiệp của chính sách của nhiều quốc gia cũng làm trầm trọng thêm mức độ nghiêm trọng của biến động giá. Cuộc đấu tranh giữa các phe phái khác nhau để khẳng định lợi ích của họ trong chuỗi cung ứng, hoặc đơn giản là để tồn tại, cũng đã và đang làm phức tạp hơn nền kinh tế cà phê toàn cầu.
Sự khốn khổ của người trồng và cuộc nổi loạn Haiti
Vào giữa thế kỷ XVIII, Santo Domingo (thuộc địa của Pháp trên đảo thuộc vùng Caribbean) trở thành nhà sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Java (Indonesia) và Ceylon (hay Sri Lanka – đất nước ở Nam Á) đã nổi lên trong cuối thế kỷ XVII, tiếp tục sản xuất một lượng cà phê quan trọng nhưng ít hơn St. Domingo. Đặc biệt, Pháp phụ thuộc vào cà phê St. Domingo, được sản xuất bởi những người nô lệ trên các điền trang lớn. Có khoảng 500.000 người nô lệ người, đại diện cho phần lớn dân số, và chịu đựng một số luật lệ hà khắc nhất từng được tạo ra bởi một cường quốc thực dân. Tin tức về Cách mạng Pháp đã giúp châm ngòi cho hy vọng và truyền cảm hứng cho cuộc nổi dậy tại đây.
Năm 1791, Toàn bộ nô lệ nổi dậy và bắt đầu một phong trào giải phóng dân tộc sinh ra từ đau khổ và tuyệt vọng. Cuộc xung đột tàn phá đất đai, sản xuất cà phê tại St. Domingo sụp đổ. Giá cà phê tăng, khuyến khích đầu tư vào cà phê ở phần còn lại của vùng Caribbean và kích thích Brazil thiết lập một cơ chế để trở thành nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Đến năm 1803, những người nô lệ đã giành được tự do, và vào ngày 1 tháng 1 năm 1804, Haiti trở thành quốc gia thuộc địa đầu tiên ở Mỹ Latinh giành được độc lập, và là quốc gia duy nhất trên thế giới giành được nó do cuộc nổi dậy của nô lệ.

Cuộc giải phóng tại Haiti là bước ngoặt vô cùng quan trong đối với chế độ thực dân – nô lệ. Nhưng đồng thời, nó cũng đã định hình và khai sinh một cục diện mới cho thương mai cà phê toàn cầu
Sự tàn phá của bệnh gỉ sắt
Java được coi là nhà sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới trong suốt thế kỷ XIX, cùng với Ceylon, Indonesia đã trở thành nguồn cung cấp cà phê quan trọng cho châu Âu. Cho đên năm 1876, một loại nấm gây bệnh gỉ sắt cà phê (Hemileia vastatrix) lan rộng khắp Đông Nam Á tàn phá hầu hết các đồn điền cà phê tại đây. Sự sụp đổ của sản xuất cà phê đã làm suy yếu các nền kinh tế của khu vực và làm rung chuyển chính quyền thuộc địa. Hàng ngàn người hái cà phê mất việc làm, nhiều chủ đồn điền từ bỏ cà phê và chuyển sang các loại cây trồng khác, đặc biệt là cao su. Người Anh chuyển sang sản xuất chè cho các đồn điền khác ở các vùng thuộc Ceylon và Ấn Độ.
Tại Java, chính phủ Hà Lan đã áp đặt các luật lệ sản xuất cà phê bắt buộc trước sự do dự vì giá thấp và rủi ro do bệnh gỉ sắt của người trồng. Tuy nhiên, các hộ sản xuất nhỏ ở Đông Nam Á đã thử nghiệm các giống cà phê kháng bệnh và dần khôi phục sản xuất cà phê trong các hệ thống nông lâm kết hợp.
Mặc dù rỉ sắt cà phê tác động đến sản xuất Đông Nam Á, giá cà phê toàn cầu vẫn không tăng vì Brazil lúc này đã mở rộng sản xuất bù đắp cho những tổn thất về sản lượng. Trong khi đó, nhiều nơi khác ở Châu Phi cũng bị tấn công bởi bệnh rỉ sắt, mặc dù các tác động rất khác nhau. Sự hiện diện của rỉ sắt đã hạn chế sản xuất cà phê ở châu Á và châu Phi thua xa châu Mỹ. Mỹ Latinh vẫn không bị rỉ sắt tấn công cho đến những năm 1970; Xuyên suốt thời gian này, nó đã củng cố vị trí của mình như là khu vực sản xuất cà phê thống trị thế giới.
Giá cà phê và bất công xã hội ở Trung Mỹ
Sự phát triển của các quốc gia Trung Mỹ có mối liên hệ mật thiết với sự mở rộng của các nhà sản xuất cà phê, nói cách khác, cà phê đã tham gia vào hoạt động chính trị của các quốc gia này.
Vào thế kỷ XIX, cà phê Trung Mỹ nổi lên như một mặt hàng có giá trị ở thị trường châu Âu do hương vị tinh tế, và thu hút các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Các nhà sản xuất cà phê lớn tại El Salvador, Guatemala và Nicaragua đã trở thành các chính trị gia hàng đầu và ủng hộ luật pháp có lợi cho họ. Ở mỗi quốc gia, việc thực hiện các chính sách tự do và luật pháp liên quan đã cho phép các nhà sản xuất cà phê lớn chiếm đất của người dân bản địa và ép họ lao động trên các đồn điền cà phê, đường và bông.

Trong quá trình đó, các nền văn hóa và truyền thống bản địa đã bị hủy hoại. Sự bất bình đẳng xã hội sâu sắc đã nuôi dưỡng các cuộc kháng chiến non trẻ giữa người dân bản địa và người nghèo ở nông thôn, điều này cuối cùng đã thúc đẩy các cuộc nội chiến ở Trung Mỹ trong những năm 1970 và 1980
Ở El Salvador, giá cà phê giảm trong những năm 1930 trùng với hoạt động chính trị – chiến tranh. Người dân bản địa – những người nghèo đã bị buộc phải lao động trên các đồn điền cà phê đã không có việc làm do khủng hoảng kinh tế. Cùng với sự khan hiếm đất đai và bần cùng hóa (và có lẽ là hy vọng nhen lên bởi lý tưởng cộng sản) xen kẽ với cuộc khủng hoảng kinh tế đã kích hoạt cuộc nổi dậy đấu tranh năm 1932, để giành lại đất đai và cải thiện điều kiện sống của họ.
Các tầng lớp thống trị tin rằng họ đang duy trì trật tự dân sự bằng cách dập tắt các mối đe dọa đối với hiện trạng từ người dân bản địa. Như một học giả đã quan sát, trên thực tế, những gì họ đang làm – qua những sự kiện đau buồn và bi thảm này, đã thế chấp tương lai dân chủ của đất nước họ trong nhiều năm – Coffee Culture
Chu kỳ thị trường và cà phê Brazil
Vào cuối những năm 1800, cà phê Brazil chiếm 2/3 (hoặc hơn) sản lượng cà phê toàn cầu mỗi năm. Sự tăng trưởng trong nguồn cung cà phê toàn cầu, dẫn đầu là Brazil, khiến giá cà phê giảm 40% trong khoảng thời gian từ 1875 đến 1886. Giá giảm có nghĩa là cà phê trở nên vừa túi tiền của nhiều người dân. Tiêu thụ cà phê tăng đều đặn khi có người tiêu thụ hơn. Tại Hoa Kỳ, tiêu thụ cà phê tăng 2.400 phần trăm trong khoảng từ 1783 đến 1883, phản ánh sự gia tăng dân số cũng như sự phổ biến ngày càng tăng của cà phê.

Mặc dù vậy, nhu cầu về tiêu thụ vẫn không tăng nhanh như nguồn cung và giá thấp đã đe dọa đến sức khỏe kinh tế của nhiều nước sản xuất. Nhiều nhà sản xuất cà phê đã đặt kỳ vọng về việc sương muối tại Brazil sẽ làm hỏng vụ thu hoạch và khiến giá cả tăng lên – miễn là thời tiết xấu tránh khỏi đồn điền của chính họ. Năm 1887, một đợt sương giá đã thực sự tấn công Brazil và khiến giá cả tăng cao, nhưng các đồn điền đã hồi phục vào cuối thế kỷ và giá cả sụp đổ một cách nghiêm trọng hơn.
Mười hai đợt sương giá nghiêm trọng tiếp theo xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 1904 đến 1994. Với mỗi đợt sương giá kết thúc, giá cả tăng đã khuyến khích đa dạng hóa nguồn cung về khu vực canh tác và cả sản lượng – Topik 2003
Brazil trong công cuộc bình ổn
Sự hiện diện chiếm ưu thế của Brazil trên thị trường cà phê toàn cầu buộc họ phải thực hiện các bước đi để bảo vệ các nhà sản xuất. Bao gồm việc tuân theo chính sách xuất khẩu lượng cà phê mà thị trường toàn cầu có thể hấp thụ sau khi phần còn lại của sản xuất thế giới đã được tính đến. Chiến lược này đã giúp duy trì giá, nhưng cũng khuyến khích các nước khác mở rộng sản xuất. Thị phần cà phê Brazil giảm dần khi sản lượng toàn cầu tăng. Trong những năm 1920, nguồn cung cà phê vượt quá nhu cầu. Chính phủ Brazil, lo lắng tăng giá, xử lý hàng tấn cà phê dư thừa bằng cách đốt nó hoặc đổ xuống đại dương.
Trong vòng mười năm, lượng cà phê dư thừa bị phá hủy đã tương đương với hai năm sản xuất cà phê của Brazil – Daviron and Ponte 2005
Từ năm 1906 đến cuối những năm 1930, Brazil đã sản xuất phần lớn cà phê thế giới và thể hiện tính hiệu quả của các chính sách bình ổn giá. Nó buộc các công ty thương mại ký thỏa thuận hợp tác, dự trữ sản xuất dư thừa và khối lượng xuất khẩu được kiểm soát, thậm chí với chi phí phá hủy sản xuất dư thừa. Bằng những chính sách này, Brazil đã giành quyền lực từ các công ty môi giới kiểm soát xuất khẩu và trở thành công ty hàng đầu trong việc định hình thị trường cà phê quốc tế

Độ trễ của chu kỳ cà phê
Chu kỳ cà phê đã đặt ra một thách thức không ngừng cho sự phát triển kinh tế của các nước sản xuất, mặc dù bối cảnh cung cấp cà phê và biến động giá cả đã thay đổi. Khi cà phê mở rộng địa lý và sản xuất toàn cầu đã tăng lên, nguồn cung giảm mạnh có khả năng ảnh hưởng hơn, nhưng rủi ro của sản xuất thừa đã tăng lên. Nhiều quốc gia đã thiết kế các sáng kiến chính sách để quản lý sản xuất cà phê và giảm thiểu biến động thị trường. Theo một số nghiên cứu, các khía cạnh chính trị của việc quản lý cà phê và phổ biến thông tin cũng ảnh hưởng đến chu kỳ cà phê nhiều như nguồn cung có sẵn.
Brazil đã cố gắng cải thiện biến động giá bằng cách lưu trữ sản xuất dư thừa và giữ bí mật sản lượng trong kho. Tương tự, Colombia đã nỗ lực để duy trì sự mơ hồ về quy mô thực tế của sản lượng thu hoạch và lưu trữ. Từ góc độ khác, các khía cạnh kinh tế nhạt đi bên cạnh những bất bình đẳng và cùng khổ liên quan đến sản xuất cà phê thông qua lịch sử nô lệ, chiếm đất, lao động cưỡng bức, phá vỡ sinh kế nông nghiệp và văn hóa bản địa. Hoàn toàn khách quan khi nói rằng cà phê đã định hình lịch sử của các quốc gia, bất bình đẳng xã hội và nhân quyền trên toàn thế giới.
Nguồn tham khảo:
Coffee Culture – Local Experiences, Global Connections, Book by Catherine M. Tucker | Chapter 15: Market Volatility And Social Calamity