Immersion là một phương pháp pha cà phê trong đó cà phê xay được ngâm hoàn toàn trong nước nóng trong một khoảng thời gian nhất định để chiết xuất hương vị. Immersion được dùng để chỉ một nhóm nhiều phương pháp pha ngâm khác nhau ví dụ như ngâm tĩnh, ngâm có áp suất,…
- Đầu tiên, khi nói đến “Immersion” chúng ta sẽ bắt gặp các phương pháp ngâm tĩnh (static immersion), chẳng hạn như French press và phương pháp thử nếm (cupping), một phong cách pha cà phê mà người ta dành phần lớn thời gian của họ để ngâm chìm cà phê trong một thể tích nước nhất định.
- Thứ hai, hoàn toàn ngược lại, các phương pháp ngâm có áp suất (pressurised immersion), chẳng hạn như Siphon và AeroPress, có một sự hỗn loạn đáng kể và các hạt xay được loại bỏ khỏi hỗn hợp cà phê đã pha thông qua áp suất.
- Cuối cùng, khi nói đến “cezve” hoặc “ibrik” (được biết đến trong phương pháp phha cà phê Thổ Nhĩ Kỳ) ta có thể xem là một cách ngâm ủ độc đáo. Vì tính phức tạp của nó – xuất phát từ kích cỡ hạt xay, nhiệt độ, và sự đun sôi trực tiếp,..
Ưu điểm của phương pháp immersion:
- Dễ sử dụng: Chỉ cần cho cà phê xay và nước vào dụng cụ pha, sau đó đợi trong vài phút (hoặc nhiều giờ – đối với cold brew).
- Chiết xuất nhiều hương vị: Phương pháp immersion có thể chiết xuất nhiều hương vị và tinh chất từ cà phê hơn so với phương pháp rót.
- Ít tốn thời gian: Quá trình pha cà phê bằng phương pháp immersion diễn ra nhanh chóng và đơn giản.
Nhược điểm của phương pháp immersion:
- Khó kiểm soát: Việc kiểm soát thời gian ngâm và nhiệt độ nước có thể ảnh hưởng đến hương vị cà phê.
- Dễ bị chiết xuất quá mức: Nếu ngâm cà phê quá lâu, cà phê có thể bị đắng.
- Bã cà phê lơ lửng: Bã cà phê có thể lơ lửng trong cà phê, khiến cà phê bị bẩn.
Phương pháp pha chế Immersion đã có trước phương pháp chiết ngâm (percolation) vài thế kỷ. Việc sử dụng giấy lọc – được xem như phương pháp pha percolation đầu tiên được biết đến chỉ bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, sau khi Melitta Bentz được cấp bằng sáng chế cho bộ lọc Melitta và giấy lọc của bà.
Bằng chứng bằng văn bản về việc ngâm ủ cà phê trong nước và không lọc có niên đại từ giữa thế kỷ XV, được học giả Ả Rập Abd al-Qadir al-Jaziri, viết vào giữa thế kỷ XVI, đây là nguồn thông tin lịch sử quan trọng nhất về sự phổ biến của việc pha cà phê trong thế giới Hồi giáo. Thông qua đó, chúng ta được biết rằng Muhammed al Dhabani, một thành viên của giáo phái Sufi huyền bí của đạo Hồi, người đã chết vào năm 1470, đã pha chế một loại nước được gọi là qahwa, được làm từ lá của cây khat, dành cho những buổi cầu nguyện ban đêm.